Bệnh Goutte (hay hội chứng Goutte hay còn gọi gút) là danh từ dùng để chỉ một nhóm tình trạng bệnh lý gồm nhiều thời kỳ viêm khớp tái đi tái lại, tương ứng với sự hiện diện của các tinh thể acid uric hoặc tinh thể muối urat ở trong dịch khớp. Trong nhiều trường hợp có thể có sự tích tụ các tinh thể này ở ngoài khớp như ở trong thận, trong một số mô dưới da. Có hai loại chính:
Goutte nguyên phát: Có tính chất di truyền.
Goutte thứ phát: Thường là hậu quả tiến triển của một bệnh hay là hậu quả của việc sử dụng thuốc lâu ngày (như thuốc lợi tiểu, aspirin liều thấp).
Tần suất xuất hiện: 90% trường hợp Goutte nguyên phát xảy ra ở đàn ông, nếu ở phụ nữ chỉ thấy xảy ra ở tuổi mãn kinh mà thôi.
Goutte thứ phát hay gặp ở phụ nữ mắc bệnh tim mạch, có tăng huyết áp hoặc những bệnh nhân có bệnh ác tính về máu (bệnh đau tủy Kahler, bệnh bạch cầu kinh thể tủy, đa hồng cầu…), bị bệnh thận mạn hoặc bị ngộ độc chì.
Theo thống kê: Bệnh Goutte chiếm 0,02 đến 0,2% dân số, chủ yếu ở nam giới (chiếm tỷ lệ 95%), thường xuất hiện ở tuổi trung niên (30 – 40 tuổi), ở Việt Nam theo thống kê: bệnh Goutte chiếm 1,5% các bệnh về xương khớp.
Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh goutte (bệnh gút)
Theo y học cổ truyền
Nguồn gốc và sự chuyển hóa acid uric
Nguyên nhân trực tiếp gây ra bệnh Goutte là acid uric. ở người bình thường: acid uric trong máu giữ mức độ cố định: nam 5mg% và nữ 4mg%. Tổng lượng acid uric trong cơ thể là 1000mg và lượng này luôn luôn được chuyển hóa (sinh mới và thải trừ).
Sinh mới
Acid uric được tạo thành từ 3 nguồn:
− Thoái biến từ chất có nhân purin do thức ăn mang vào.
− Thoái biến từ chất có nhân purin từ trong cơ thể (các acid nhân ADN và ARN do sự phá hủy các tế bào giải phóng ra).
− Tổng hợp các purin từ con đường nội sinh.
Ngoài sự hình thành acid uric từ ba nguồn trên còn cần có sự tham gia của các men nuclease, xanthin oxyclase, hypoxanthin, guanin phosphoribosyl transferase (HGPT).
Thải trừ acid uric
Để cân bằng, hàng ngày acid uric được thải trừ ra ngoài, chủ yếu theo đường thận (450 – 500mg/24h) một phần qua đường phân và một số cùng với các đường khác 200mg.
Nguyên nhân gây tăng lượng acid uric
− Tăng bẩm sinh (bệnh Lesch – Nyhan): Do thiếu men HGPT nên lượng acid uric tăng cao ngay từ nhỏ, bệnh có biểu hiện toàn thân, Thần kinh, thận và khớp. Bệnh này rất hiếm và rất nặng.
− Goutte nguyên phát: Gắn liền với yếu tố di truyền và cơ địa, quá trình tổng hợp purin nội sinh tăng nhiều gây tăng nhiều acid uric.
− Goutte thứ phát: Acid uric trong cơ thể tăng do
+ ăn nhiều thức ăn có chứa nhiều purin (gan, phủ tạng động vật, thịt, cá, nấm, tôm, cua), uống nhiều rượu. Đây cũng là tác nhân tác động gây bệnh cả nguyên phát và thứ phát.
+ Do tăng cường thoái biến purin nội sinh (phá hủy nhiều tế bào tổ chức) như bệnh đa hồng cầu, bệnh bạch cầu mạn thể tủy, Hodgkin, sarcom hạch, đau tủy xương hoặc do sử dụng những thuốc diệt tế bào để điều trị các bệnh ác tính.
+ Giảm thải acid uric qua thận do viêm thận mạn tính hoặc suy thận làm acid uric ứ lại gây bệnh.
Cơ chế bệnh sinh
Khi lượng acid uric trong máu tăng cao (trên 7mg% hay 416,5àmol/l) và tổng lượng acid uric trong cơ thể tăng thì sẽ lắng đọng lại ở một số tổ chức và cơ quan dưới dạng tinh thể acid uric hay urat monosodic.
− Lắng đọng ở màng hoạt dịch gây viêm khớp.
− Lắng đọng ở thận (nhu mô thận và đài bể thận).
− Lắng đọng ở các nội tạng và cơ quan, gây các biểu hiện bệnh Goutte ở nơi này:
+ Sụn xương, sụn khớp, sụn vành tai, thanh quản.
+ Gân: gân Achille, các gân duỗi các ngón.
+ Tổ chức dưới da: khuỷu, mắt cá, gối.
+ Thành mạch, tim.
+ Mắt.
Trong bệnh Goutte, urat monosodic lắng đọng ở thành hoạt dịch sẽ gây một loạt các phản ứng:
Biểu hiện lâm sàng
Giai đoạn nồng độ acid uric trong máu cao và chưa biểu hiện trên lâm sàng
Hay gặp ở nam lúc tuổi dậy thì và nữ lúc tuổi mãn kinh. Có thể xuất hiện cơn đau quặn thận (10 – 40%) do sỏi urat trước.
Giai đoạn Goutte cấp tính
Goutte cấp tính được biểu hiện bằng những đợt viêm cấp tính và dữ dội của ngón chân cái (khớp bàn ngón), thường xảy đến bất thình lình. Cơn Goutte cấp có thể khởi phát sau một số điều kiện thuận lợi như:
− Sau một bữa ăn nhiều thịt rượu.
− Sau chấn thương hoặc phẫu thuật.
− Lao động nặng, đi lại nhiều, mang giày quá chật.
− Xúc động, cảm động.
− Nhiễm khuẩn cấp.
− Sau khi dùng một số thuốc lợi tiểu như nhóm chlorothiazid, tinh chất gan, vitamin B12, steroid…
Khoảng 50% bệnh nhân có dấu hiệu báo trước như rối loạn tiêu hóa, nhức đầu, mệt mỏi, đái nhiều và nóng buốt, sốt nhẹ…
Cơn thường xảy ra vào ban đêm, khoảng 2 – 3 giờ sáng: đau nhức dữ dội ở khớp bàn ngón chân cái, càng lúc càng đau nhiều, đến nỗi đụng vào tấm chăn mền cũng không sao chịu được.
Cơn đau kéo dài đến sáng thì dịu dần, đến đêm hôm sau lại bắt đầu đợt đau như cũ. Một cơn Goutte cấp tính có thể kéo dài vài ngày đến vài tuần. Bệnh nhân có sốt, có thể kèm theo rét run, nhiệt độ từ 38 – 390C. Sốt càng cao nếu bệnh nhân càng đau nhiều.
Nơi khớp đau nhức sẽ có dấu hiệu viêm khớp cấp, da đỏ láng, phù nhẹ, có nhiều tĩnh mạch nổi lên.
Hết cơn, bệnh nhân sẽ ngứa ở khớp, tróc da, khớp bị cứng từ 1 – 2 ngày rồi trở lại bình thường không di chứng.
Cơn cấp tính có thể tái phát nhiều lần, 7% không có cơn Goutte cấp lần II, nhưng phần lớn cơn Goutte cấp lần II xảy ra từ sau một năm cho tới 10 năm.
Goutte mạn tính
Diễn tiến chậm, có thể có hoặc không có, kèm theo các đợt cấp. Nếu có các đợt này xảy ra ít hơn, thời gian đau ngắn hơn.
Goutte mạn biểu hiện bằng dấu hiệu nổi ở các u cục (tophi) và viêm đa khớp mạn tính, do đó gọi là Goutte lắng đọng.
Tophi là những cục tinh thể acid uric hoặc muối urat có ở màng khớp, sụn khớp, gân cơ, mô dưới da. Tophi xuất hiện một cách kín đáo, lớn chậm, không di động, cứng dần, hình thể không đều, không đau nhưng sự hiện diện ở khớp có thể làm cứng dần và đưa tới biến dạng khớp. Da nơi tophi xuất hiện dễ bị loét, rò lỗ, chảy ra một chất trắng như phấn. Tophi ít khi bị nhiễm trùng nhưng nếu bội nhiễm rất khó chữa lành.
Biến dạng khớp: khớp nào ở giai đoạn Goutte mạn tính cũng đều có thể bị tổn thương cả. Thường bị thương tổn ở nhiều khớp một lúc và là các khớp nhỏ ngoại biên. Khớp không đau lúc nghỉ ngơi nhưng đau và cứng khớp khi hoạt động.
Biến chứng nội tạng
Khoảng 1/3 trường hợp bệnh nhân đau sau cơn Goutte có cơn đau quặn thận do có sự thành lập sỏi urat.
Một số bệnh nhân có chức năng thận thay đổi, diễn tiến bệnh thận rất chậm.
Biểu hiện cận lâm sàng
− Acid uric máu tăng.
− Bạch cầu tang
− Tốc độ lắng máu bình thường hoặc tăng ít.
− Dịch khớp đục.
− Bạch cầu tăng nhiều 10.000 – 70.000/mm3; phần lớn là bạch cầu đa nhân, lượng mucin giảm, nồng độ glucose và acid uric tương tự như trong máu.
− X quang khớp:
+ Goutte cấp chưa có biến đổi trên X quang.
+ Goutte mạn: khoảng cách 2 đầu xương hẹp lại, có hiện tượng mọc thêm xương ở đầu xương và có hiện tượng tạo hang ở trong xương.
Nguyên nhân bệnh sinh theo y học cổ truyền
Goutte (hay thống phong) được mô tả như trên nằm trong phạm trù chứng tý thể hàn tý, thấp tý, hàn thấp tý và chứng lịch tiết phong.
Nguyên nhân bệnh là do ba thứ tà khí phong, hàn, thấp vào tích tụ lâu ngày trong cơ thể, mà cơ thể lại có can thận bất túc: can hư không nuôi dưỡng được cân mạch; thận hư không làm chủ được cốt tủy. Hư nhiệt kết hợp với khí huyết ứ trệ do tà khí tích tụ gây bế tắc làm cho khớp xương sưng nóng đau không co duỗi vận động được. Đau càng dữ dội về đêm, trời lạnh đau tăng, chườm nóng đỡ đau. Nếu bệnh tiến triển nhanh và mạnh hơn thì gọi là bạch hổ lịch tiết.
Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định
Dựa vào biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng có acid uric tăng cao trong máu.
Chẩn đoán phân biệt
− Cơn Goutte cấp cần chẩn đoán phân biệt với:
+ Cơn giả Goutte: là bệnh viêm khớp của người già, do sự lắng đọng của những tinh thể calci trong dịch khớp, đôi khi cũng có xảy ra ở người trẻ và thương tổn tiến triển nhanh chóng ở nhiều khớp. Bệnh xuất hiện ở hai phái như nhau. Cơn giả Goutte cấp cũng tương tự như Goutte cấp nhưng thường là tổn thương khớp to (nhất là gối, cũng có thể thấy ở khớp cổ tay, cổ chân, mắt cá, cột sống lưng, ngón cái chân) và thời gian đau ngắn hơn 1-2 tuần.
X quang cho thấy hiện tượng hóa vôi ở sụn.
Dịch khớp chứa các tinh thể calci và giả tophi là những cục tinh thể calci kết lại thành từng đám.
Bệnh điều trị không hiệu quả với colchicin.
+ Viêm khớp cấp trong bệnh viêm đa khớp dạng thấp.
+ Viêm khớp mủ.
+ Viêm khớp do chấn thương.
+ Thoái hóa khớp.
− Goutte mạn tính: cần phải phân biệt tất cả các trường hợp viêm khớp gây biến dạng khớp như thoái hóa khớp, viêm khớp dạng thấp.
Bài thuốc nam chữa bệnh Gút của thuốc nam gia truyền Lâm Viên các thành phần từ thảo dược thiên nhiên. Các nguyên liệu sử dụng trong bài thuốc nam chữa bệnh Gút được lựa chọn một cách cẩn thận bởi các bác sĩ Đông Y có nhiều năm kinh nghiệm trong việc kết hợp các vị thuốc thành bài thuốc nam chữa bệnh Gút. Nguyên liệu thuốc sử dụng cho bài thuốc nam chữa bệnh Gút được thu hoạch theo những thời điểm nhất định trong ngày, trong năm và theo mùa, tuổi của cây thuốc; theo phương pháp gia truyền của thuốc nam gia truyền Lâm Viên nhằm đảm bảo kết quả điều trị của Bài thuốc nam chữa bệnh Gút. Ngoài việc áp dụng công thức gia truyền truyền trong bào chế bài thuốc nam chữa bệnh Gút, quá trình sơ chế thảo dược, sao khô và được thực hiện bởi những bác sĩ Đông Y có kinh nghiệm giúp bài thuốc nam chữa bệnh Gút mang lại những hiệu quả vượt trội so với phương pháp điều trị bệnh Gút theo Tây Y.
Kết quả của bài thuốc nam chữa bệnh Gút
– Giảm nồng độ Axit Uric
– Giảm tình trạng sưng đỏ và đau nhức
– Giảm thiểu và ngăn ngừa tình trạng nổi cục ở các khớp bao gồm: khớp mắt cá chân, bàn chân, đầu gối, cổ tay, khuỷu tay và khớp nhỏ của bàn tay
– Giảm thiểu tình trạng tổn thương khớp xương
– Hồi phục tổ thương khớp xương
– Ngăn ngừa sự hình thành của sạn thận và khối u dưới da quanh khớp bị gút
– Giảm các cơn đau, kéo dài thời gian giữa các cơ đau dần dần điều trị dứt điểm các cơn đau
– Đào thải độc tố
– Thanh lọc cơ thể
Cách sử dụng bài thuốc nam chữa bệnh Gút
Thuốc sắc: Cho 1 thang thuốc vào nồi rồi cho 2 lít nước, đun còn 1,5 lít uống thay nước trong ngày ( cất bã thuốc ngày mai đun dung tiếp)
Thuốc Bột uống: Gồm 10 gói – Uống 30 ngày
Mỗi ngày uống 1/3 gói thuốc – uống vào trước bữa sáng.
Thuốc ngâm rượu: Ngâm với 2 lít rượu trắng 38-40độ, (ngâm qua đêm là dung được) dùng để xoa bóp vào chỗ đau và uống 1 ly nhỏ 10ml vào buổi tối trước khi đi ngủ.
Câu hỏi thường gặp khi sử dụng bài thuốc nam chữa bệnh Gút
Tôi có phải ăn kiêng khi sử dụng bài thuốc nam chữa bệnh Gút không?
Có. Người điều trị bệnh Gút đặc biệt kiêng: Nội tạng động vật, hải sản, thịt chó, nước chè, các chất khó tiêu, các chất kích thích mạnh, đồ ăn cay nóng, rượu bia.
Tôi bị bệnh béo phì, đang dùng thuốc giảm cân, tôi có thể dùng bài thuốc nam chữa bệnh Gút không?
Bạn nên tạm ngừng hoặc hoàn thành giai đoạn dùng thuốc giảm cân. Chỉ sử dụng bài thuốc nam chữa bệnh Gút sau hai tuần ngừng điều chị bệnh béo phì.
Tôi bị bệnh tiểu đường tuýp 2, tôi có thể dùng bài thuốc nam chữa bệnh Gút không?
Có. Tuy nhiên, nếu bạn đang sử dụng phương pháp Tây Y điều trị bệnh tiểu đường, bạn nên tạm dừng việc uống thuốc, bổ sung insulin hoặc tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng.
Goutte nguyên phát: Có tính chất di truyền.
Goutte thứ phát: Thường là hậu quả tiến triển của một bệnh hay là hậu quả của việc sử dụng thuốc lâu ngày (như thuốc lợi tiểu, aspirin liều thấp).
Tần suất xuất hiện: 90% trường hợp Goutte nguyên phát xảy ra ở đàn ông, nếu ở phụ nữ chỉ thấy xảy ra ở tuổi mãn kinh mà thôi.
Goutte thứ phát hay gặp ở phụ nữ mắc bệnh tim mạch, có tăng huyết áp hoặc những bệnh nhân có bệnh ác tính về máu (bệnh đau tủy Kahler, bệnh bạch cầu kinh thể tủy, đa hồng cầu…), bị bệnh thận mạn hoặc bị ngộ độc chì.
Theo thống kê: Bệnh Goutte chiếm 0,02 đến 0,2% dân số, chủ yếu ở nam giới (chiếm tỷ lệ 95%), thường xuất hiện ở tuổi trung niên (30 – 40 tuổi), ở Việt Nam theo thống kê: bệnh Goutte chiếm 1,5% các bệnh về xương khớp.
Nguyên nhân, cơ chế bệnh sinh goutte (bệnh gút)
Theo y học cổ truyền
Nguồn gốc và sự chuyển hóa acid uric
Nguyên nhân trực tiếp gây ra bệnh Goutte là acid uric. ở người bình thường: acid uric trong máu giữ mức độ cố định: nam 5mg% và nữ 4mg%. Tổng lượng acid uric trong cơ thể là 1000mg và lượng này luôn luôn được chuyển hóa (sinh mới và thải trừ).
Sinh mới
Acid uric được tạo thành từ 3 nguồn:
− Thoái biến từ chất có nhân purin do thức ăn mang vào.
− Thoái biến từ chất có nhân purin từ trong cơ thể (các acid nhân ADN và ARN do sự phá hủy các tế bào giải phóng ra).
− Tổng hợp các purin từ con đường nội sinh.
Ngoài sự hình thành acid uric từ ba nguồn trên còn cần có sự tham gia của các men nuclease, xanthin oxyclase, hypoxanthin, guanin phosphoribosyl transferase (HGPT).
Thải trừ acid uric
Để cân bằng, hàng ngày acid uric được thải trừ ra ngoài, chủ yếu theo đường thận (450 – 500mg/24h) một phần qua đường phân và một số cùng với các đường khác 200mg.
Nguyên nhân gây tăng lượng acid uric
− Tăng bẩm sinh (bệnh Lesch – Nyhan): Do thiếu men HGPT nên lượng acid uric tăng cao ngay từ nhỏ, bệnh có biểu hiện toàn thân, Thần kinh, thận và khớp. Bệnh này rất hiếm và rất nặng.
− Goutte nguyên phát: Gắn liền với yếu tố di truyền và cơ địa, quá trình tổng hợp purin nội sinh tăng nhiều gây tăng nhiều acid uric.
− Goutte thứ phát: Acid uric trong cơ thể tăng do
+ ăn nhiều thức ăn có chứa nhiều purin (gan, phủ tạng động vật, thịt, cá, nấm, tôm, cua), uống nhiều rượu. Đây cũng là tác nhân tác động gây bệnh cả nguyên phát và thứ phát.
+ Do tăng cường thoái biến purin nội sinh (phá hủy nhiều tế bào tổ chức) như bệnh đa hồng cầu, bệnh bạch cầu mạn thể tủy, Hodgkin, sarcom hạch, đau tủy xương hoặc do sử dụng những thuốc diệt tế bào để điều trị các bệnh ác tính.
+ Giảm thải acid uric qua thận do viêm thận mạn tính hoặc suy thận làm acid uric ứ lại gây bệnh.
Cơ chế bệnh sinh
Khi lượng acid uric trong máu tăng cao (trên 7mg% hay 416,5àmol/l) và tổng lượng acid uric trong cơ thể tăng thì sẽ lắng đọng lại ở một số tổ chức và cơ quan dưới dạng tinh thể acid uric hay urat monosodic.
− Lắng đọng ở màng hoạt dịch gây viêm khớp.
− Lắng đọng ở thận (nhu mô thận và đài bể thận).
− Lắng đọng ở các nội tạng và cơ quan, gây các biểu hiện bệnh Goutte ở nơi này:
+ Sụn xương, sụn khớp, sụn vành tai, thanh quản.
+ Gân: gân Achille, các gân duỗi các ngón.
+ Tổ chức dưới da: khuỷu, mắt cá, gối.
+ Thành mạch, tim.
+ Mắt.
Trong bệnh Goutte, urat monosodic lắng đọng ở thành hoạt dịch sẽ gây một loạt các phản ứng:
- Hoạt hóa yếu tố Hageman tại chỗ, từ đó kích thích các tiền chất gây viêm như kininigen và kallicreinogen trở thành kinin và kallicrein gây phản ứng viêm ở thành hoạt dịch.
- Từ phản ứng viêm các bạch cầu sẽ tập trung tới, bạch cầu sẽ thực bào các vi tinh thễ urat rồi giải phóng các men tiêu thể của bạch cầu (lysozym) các men này cũng là một tác nhân gây viêm rất mạnh.
- Phản ứng viêm của màng hoạt dịch sẽ làm tăng chuyển hóa, sinh nhiều acid lactic tại chỗ và giảm độ pH, môi trường càng toan thì urat càng lắng đọng nhiều và phản ứng viêm ở đây trở thành một vòng khép kín liên tục, viêm sẽ kéo dài. Do đó trên lâm sàng thấy 2 thể bệnh Goutte:
- Thể bệnh Goutte cấp tính, quá trình viêm xảy ra trong một thời gian ngắn rồi chấm dứt, rồi lại tái phát.
- Thể bệnh Goutte mạn tính quá trình lắng đọng urat nhiều và kéo dài, biểu hiện viêm liên tục không ngừng.
Biểu hiện lâm sàng
Giai đoạn nồng độ acid uric trong máu cao và chưa biểu hiện trên lâm sàng
Hay gặp ở nam lúc tuổi dậy thì và nữ lúc tuổi mãn kinh. Có thể xuất hiện cơn đau quặn thận (10 – 40%) do sỏi urat trước.
Giai đoạn Goutte cấp tính
Goutte cấp tính được biểu hiện bằng những đợt viêm cấp tính và dữ dội của ngón chân cái (khớp bàn ngón), thường xảy đến bất thình lình. Cơn Goutte cấp có thể khởi phát sau một số điều kiện thuận lợi như:
− Sau một bữa ăn nhiều thịt rượu.
− Sau chấn thương hoặc phẫu thuật.
− Lao động nặng, đi lại nhiều, mang giày quá chật.
− Xúc động, cảm động.
− Nhiễm khuẩn cấp.
− Sau khi dùng một số thuốc lợi tiểu như nhóm chlorothiazid, tinh chất gan, vitamin B12, steroid…
Khoảng 50% bệnh nhân có dấu hiệu báo trước như rối loạn tiêu hóa, nhức đầu, mệt mỏi, đái nhiều và nóng buốt, sốt nhẹ…
Cơn thường xảy ra vào ban đêm, khoảng 2 – 3 giờ sáng: đau nhức dữ dội ở khớp bàn ngón chân cái, càng lúc càng đau nhiều, đến nỗi đụng vào tấm chăn mền cũng không sao chịu được.
Cơn đau kéo dài đến sáng thì dịu dần, đến đêm hôm sau lại bắt đầu đợt đau như cũ. Một cơn Goutte cấp tính có thể kéo dài vài ngày đến vài tuần. Bệnh nhân có sốt, có thể kèm theo rét run, nhiệt độ từ 38 – 390C. Sốt càng cao nếu bệnh nhân càng đau nhiều.
Nơi khớp đau nhức sẽ có dấu hiệu viêm khớp cấp, da đỏ láng, phù nhẹ, có nhiều tĩnh mạch nổi lên.
Hết cơn, bệnh nhân sẽ ngứa ở khớp, tróc da, khớp bị cứng từ 1 – 2 ngày rồi trở lại bình thường không di chứng.
Cơn cấp tính có thể tái phát nhiều lần, 7% không có cơn Goutte cấp lần II, nhưng phần lớn cơn Goutte cấp lần II xảy ra từ sau một năm cho tới 10 năm.
Goutte mạn tính
Diễn tiến chậm, có thể có hoặc không có, kèm theo các đợt cấp. Nếu có các đợt này xảy ra ít hơn, thời gian đau ngắn hơn.
Goutte mạn biểu hiện bằng dấu hiệu nổi ở các u cục (tophi) và viêm đa khớp mạn tính, do đó gọi là Goutte lắng đọng.
Tophi là những cục tinh thể acid uric hoặc muối urat có ở màng khớp, sụn khớp, gân cơ, mô dưới da. Tophi xuất hiện một cách kín đáo, lớn chậm, không di động, cứng dần, hình thể không đều, không đau nhưng sự hiện diện ở khớp có thể làm cứng dần và đưa tới biến dạng khớp. Da nơi tophi xuất hiện dễ bị loét, rò lỗ, chảy ra một chất trắng như phấn. Tophi ít khi bị nhiễm trùng nhưng nếu bội nhiễm rất khó chữa lành.
Biến dạng khớp: khớp nào ở giai đoạn Goutte mạn tính cũng đều có thể bị tổn thương cả. Thường bị thương tổn ở nhiều khớp một lúc và là các khớp nhỏ ngoại biên. Khớp không đau lúc nghỉ ngơi nhưng đau và cứng khớp khi hoạt động.
Biến chứng nội tạng
Khoảng 1/3 trường hợp bệnh nhân đau sau cơn Goutte có cơn đau quặn thận do có sự thành lập sỏi urat.
Một số bệnh nhân có chức năng thận thay đổi, diễn tiến bệnh thận rất chậm.
Biểu hiện cận lâm sàng
− Acid uric máu tăng.
− Bạch cầu tang
− Tốc độ lắng máu bình thường hoặc tăng ít.
− Dịch khớp đục.
− Bạch cầu tăng nhiều 10.000 – 70.000/mm3; phần lớn là bạch cầu đa nhân, lượng mucin giảm, nồng độ glucose và acid uric tương tự như trong máu.
− X quang khớp:
+ Goutte cấp chưa có biến đổi trên X quang.
+ Goutte mạn: khoảng cách 2 đầu xương hẹp lại, có hiện tượng mọc thêm xương ở đầu xương và có hiện tượng tạo hang ở trong xương.
Nguyên nhân bệnh sinh theo y học cổ truyền
Goutte (hay thống phong) được mô tả như trên nằm trong phạm trù chứng tý thể hàn tý, thấp tý, hàn thấp tý và chứng lịch tiết phong.
Nguyên nhân bệnh là do ba thứ tà khí phong, hàn, thấp vào tích tụ lâu ngày trong cơ thể, mà cơ thể lại có can thận bất túc: can hư không nuôi dưỡng được cân mạch; thận hư không làm chủ được cốt tủy. Hư nhiệt kết hợp với khí huyết ứ trệ do tà khí tích tụ gây bế tắc làm cho khớp xương sưng nóng đau không co duỗi vận động được. Đau càng dữ dội về đêm, trời lạnh đau tăng, chườm nóng đỡ đau. Nếu bệnh tiến triển nhanh và mạnh hơn thì gọi là bạch hổ lịch tiết.
Chẩn đoán
Chẩn đoán xác định
Dựa vào biểu hiện lâm sàng và cận lâm sàng có acid uric tăng cao trong máu.
Chẩn đoán phân biệt
− Cơn Goutte cấp cần chẩn đoán phân biệt với:
+ Cơn giả Goutte: là bệnh viêm khớp của người già, do sự lắng đọng của những tinh thể calci trong dịch khớp, đôi khi cũng có xảy ra ở người trẻ và thương tổn tiến triển nhanh chóng ở nhiều khớp. Bệnh xuất hiện ở hai phái như nhau. Cơn giả Goutte cấp cũng tương tự như Goutte cấp nhưng thường là tổn thương khớp to (nhất là gối, cũng có thể thấy ở khớp cổ tay, cổ chân, mắt cá, cột sống lưng, ngón cái chân) và thời gian đau ngắn hơn 1-2 tuần.
X quang cho thấy hiện tượng hóa vôi ở sụn.
Dịch khớp chứa các tinh thể calci và giả tophi là những cục tinh thể calci kết lại thành từng đám.
Bệnh điều trị không hiệu quả với colchicin.
+ Viêm khớp cấp trong bệnh viêm đa khớp dạng thấp.
+ Viêm khớp mủ.
+ Viêm khớp do chấn thương.
+ Thoái hóa khớp.
− Goutte mạn tính: cần phải phân biệt tất cả các trường hợp viêm khớp gây biến dạng khớp như thoái hóa khớp, viêm khớp dạng thấp.
Bài thuốc nam chữa bệnh Gút của thuốc nam gia truyền Lâm Viên các thành phần từ thảo dược thiên nhiên. Các nguyên liệu sử dụng trong bài thuốc nam chữa bệnh Gút được lựa chọn một cách cẩn thận bởi các bác sĩ Đông Y có nhiều năm kinh nghiệm trong việc kết hợp các vị thuốc thành bài thuốc nam chữa bệnh Gút. Nguyên liệu thuốc sử dụng cho bài thuốc nam chữa bệnh Gút được thu hoạch theo những thời điểm nhất định trong ngày, trong năm và theo mùa, tuổi của cây thuốc; theo phương pháp gia truyền của thuốc nam gia truyền Lâm Viên nhằm đảm bảo kết quả điều trị của Bài thuốc nam chữa bệnh Gút. Ngoài việc áp dụng công thức gia truyền truyền trong bào chế bài thuốc nam chữa bệnh Gút, quá trình sơ chế thảo dược, sao khô và được thực hiện bởi những bác sĩ Đông Y có kinh nghiệm giúp bài thuốc nam chữa bệnh Gút mang lại những hiệu quả vượt trội so với phương pháp điều trị bệnh Gút theo Tây Y.
Kết quả của bài thuốc nam chữa bệnh Gút
– Giảm nồng độ Axit Uric
– Giảm tình trạng sưng đỏ và đau nhức
– Giảm thiểu và ngăn ngừa tình trạng nổi cục ở các khớp bao gồm: khớp mắt cá chân, bàn chân, đầu gối, cổ tay, khuỷu tay và khớp nhỏ của bàn tay
– Giảm thiểu tình trạng tổn thương khớp xương
– Hồi phục tổ thương khớp xương
– Ngăn ngừa sự hình thành của sạn thận và khối u dưới da quanh khớp bị gút
– Giảm các cơn đau, kéo dài thời gian giữa các cơ đau dần dần điều trị dứt điểm các cơn đau
– Đào thải độc tố
– Thanh lọc cơ thể
Cách sử dụng bài thuốc nam chữa bệnh Gút
Thuốc sắc: Cho 1 thang thuốc vào nồi rồi cho 2 lít nước, đun còn 1,5 lít uống thay nước trong ngày ( cất bã thuốc ngày mai đun dung tiếp)
Thuốc Bột uống: Gồm 10 gói – Uống 30 ngày
Mỗi ngày uống 1/3 gói thuốc – uống vào trước bữa sáng.
Thuốc ngâm rượu: Ngâm với 2 lít rượu trắng 38-40độ, (ngâm qua đêm là dung được) dùng để xoa bóp vào chỗ đau và uống 1 ly nhỏ 10ml vào buổi tối trước khi đi ngủ.
Câu hỏi thường gặp khi sử dụng bài thuốc nam chữa bệnh Gút
Tôi có phải ăn kiêng khi sử dụng bài thuốc nam chữa bệnh Gút không?
Có. Người điều trị bệnh Gút đặc biệt kiêng: Nội tạng động vật, hải sản, thịt chó, nước chè, các chất khó tiêu, các chất kích thích mạnh, đồ ăn cay nóng, rượu bia.
Tôi bị bệnh béo phì, đang dùng thuốc giảm cân, tôi có thể dùng bài thuốc nam chữa bệnh Gút không?
Bạn nên tạm ngừng hoặc hoàn thành giai đoạn dùng thuốc giảm cân. Chỉ sử dụng bài thuốc nam chữa bệnh Gút sau hai tuần ngừng điều chị bệnh béo phì.
Tôi bị bệnh tiểu đường tuýp 2, tôi có thể dùng bài thuốc nam chữa bệnh Gút không?
Có. Tuy nhiên, nếu bạn đang sử dụng phương pháp Tây Y điều trị bệnh tiểu đường, bạn nên tạm dừng việc uống thuốc, bổ sung insulin hoặc tham khảo ý kiến bác sĩ trước khi sử dụng.